Tin tức
Minh Thư ITEC07 - xin visa di Mỹ
Lần cập nhật cuối lúc Thứ hai, 28 Tháng 10 2019 13:29 Viết bởi Trần Công Danh Thứ ba, 25 Tháng 5 2010 14:20
Tôi đăng ký vào trường University of Houston cho mùa Spring 2010. Vì thế, sau khi nhận được thư chấp nhận của trường và I-20, tôi đăng ký phỏng vấn xin visa vào ngày 4 tháng 11 năm 2009. Những kinh nghiệm của những người đi trước cho biết phỏng vấn visa không dễ, và phỏng vấn đi du học lại càng khó, làm tôi cũng rất lo. Thực sự tôi cũng không biết chuẩn bị gì, ngoài các giấy tờ cần thiết.
Tôi chọn giờ phỏng vấn là 8:30. Khoảng 7:20 tôi có mặt tại toàn lãnh sự quán Mỹ, lúc đó có rất đông người xếp hàng chờ cho giờ phỏng vấn 7:30. Lần trước, khi tôi đi phỏng vấn du lịch thì được vào ngay, nhưng lần này vì quá đông nên phải xếp hàng trong một căn phòng lớn rồi mới được vào cổng chính. Mẹ tôi tươi cười chúc may mắn rồi sang bên kia đường chờ, mẹ nói không sao đâu con, được thì tốt, không được thì thôi. Bỗng nhiên tôi không còn cảm giác lo lắng nữa, mà thấy thoải mái hơn nhiều.
Căn phòng chờ xếp hàng để vào cổng chính được chia thành hai bên: Immigrant(người nhập cư) và Non-Immigrant (người không nhập cư). Những người đi immigrant rất đông, vì họ thường đi cả gia đình. Từng đợt khoảng 20 người lần lượt immigrant rồi đến non-immigrant được vào trong lãnh sự quán. Những người lớn tuổi, người khuyết tật và phụ nữ có con nhỏ được ưu tiên vào trước. Đến khoảng 7:50 thì tôi cũng được vào.
Đầu tiên phải gửi điện thoại ở cổng ra vào, rồi mới tiếp tục vào trong. Các giờ hẹn được chia thành những hàng khác nhau để nộp hồ sơ chuẩn bị phỏng vấn. Những người đã từng đi Mỹ sẽ được vào cổng C, không phải xếp hàng theo giờ hẹn để vào cổng A. Tôi vào cổng C và được làm thủ tục nhanh hơn, sau đó được phát cho số thứ tự và vào ngồi trước các phòng phỏng vấn để chờ.
Trước khi được gọi lên phỏng vấn phải lấy dấu vân tay trước. Dù lúc đó gần 8 giờ nhưng những người phỏng vấn vẫn chưa đến làm việc, và những người hẹn lúc 7:30 vẫn đang ngồi chờ. Khoảng 8:15, thì có 3 phòng bắt đầu làm việc. Những người lớn tuổi và khuyết tật và người từng đi Mỹ được ưu tiên trước. Có 2 người trong một phòng phỏng vấn, 1 người Mỹ (hoặc Hàn Quốc, Trung Quốc, …) và 1 người Việt, với những người đi phỏng vấn không biết tiếng Anh thì có thể nói tiếng Việt.
Đến 8:25 tôi được gọi lên phỏng vấn phòng số 2. Một ông người Mỹ và một cô người Việt cười thân thiện nói “Good morning!”. Tôi cũng mỉm cười chào lại. Ông Mỹ mở lời bằng tiếng Việt:
- Ngón cái, “tai phải”, để lên cái “mào đỏ”.
Tôi phải mất … 2 giây suy nghĩ xem cái “tai phải” sao mà để lên cái “mào đỏ” nào. À, thì ra là ông kiểm tra dấu vân tay lại.
Việc ông nói tiếng Việt làm tôi thấy tự tin hơn, vì ông là người nước ngoài, nói tiếng Việt dù không đúng giọng nhưng tôi vẫn có thể hiểu, thì việc tôi nói tiếng Anh không chuẩn nhưng mình cố gắng diễn đạt hết ý của mình là được.
Ông xem hồ sơ khá lâu, rồi quay sang cười hỏi:
- Can you speak English?
- Yes, I can.
Ông lại xem hồ sơ thêm một chút nữa:
- Why do you choose University of Houston?
- I choose University of Houston because last year I had a chance to visit that university when attending my brother’s graduation. He graduated from the University of Houston – System.
Tôi cảm thấy phần trả lời đã đủ, nhưng ông vẫn có ý chờ tôi nói thêm
- …and now he has a good job…
Ông vẫn cười và chờ đợi. Tôi hơi rối một chút, nên nói đại
- …so I think I might get a good job after graduating from that university…
Ông hỏi tiếp
- Did your brother come back to Vietnam?
- No, he didn’t. He’s working now and he plans to study master afterward.
Tôi hơi lo, vì nhiều người nói có người thân ở Mỹ thì sẽ bị từ chối. Và anh tôi vẫn đang làm việc ở Mỹ, chưa về Việt Nam sau khi học xong có thể khiến họ nghĩ anh tìm cách ở lại luôn và tôi cũng vậy.
Ông cười, quay sang đánh thông tin vào máy vi tính. Vừa đánh máy ông vừa hỏi
- Do you have any other relative in the US?
- No, I don’t.
Ông hỏi tiếp
- Can I see your … học bạ? (ông nói từ “học bạ” rất chính xác)
Tôi đưa cho ông hết giấy tờ cần thiết
Ông qua sang cô Việt Nam, hai người cùng xem bảng điểm và điểm TOEFL của tôi.
Ông tiếp tục đánh máy. Cô Việt Nam đi đâu đó
Ông tiếp tục
- What do your parents do?
- My mom is a doctor and my dad is an engineer.
Cô Việt Nam trở lại. Ông quay sang cười, cô Việt Nam cũng cười hỏi “Yes?”, ông nói “Yes”. Tôi không biết hai người yes gì, hơi hy vọng, mà cũng hơi lo.
Ông quay sang tôi
- Enjoy your study.
Ơ, tự nhiên lúc đó tôi ngơ ngác quá xá ko biết ý ông là enjoy ở đâu? Mỹ hay Việt Nam? Nếu ông nói “Congratulation!” hay “Sorry!” thì dễ hiểu hơn
Cô Việt Nam viết một tờ giấy. Cô đưa cho tôi rồi nói
- Xong rồi đó em, ngày mai em đến lấy passport. Em về được rồi
Vậy là tôi đã được visa đi Mỹ. Lúc đó là 8:35
Phan Thông Minh Thư
Cựu sinh viên Itec07
Sinh viên University of Houston
Những điều nên chuẩn bị khi đi phỏng vấn du học
- Chuẩn bị đầy đủ giấy tờ cần thiết (giấy hẹn, DS-156, DS-158, I-20, SEVIS) và các giấy tờ chứng minh tài chính,…
- Nên đi sớm để có được tư thế sẵn sàng, không cập rập, và cũng cảm thấy thoải mái hơn.
- Không đặt nặng vấn đề đậu hay rớt. Nên có kế hoạch trước nếu không đạt thì sẽ làm gì, để không cảm thấy quá thất vọng. Đậu hay rớt cũng cần có may mắn nữa,
- Ăn mặc đứng đắn, lịch sự. Và cũng nên chọn trang phục nào khiến mình thoải mái tự tin.
- Luôn giữ thái độ thoải mái và tự tin lúc phỏng vấn. Những điều biết rõ thì nên trả lời cụ thể rõ ràng, không biết chắc chắn thì nên nói là không biết. Tươi cười lúc trả lời cũng làm tâm trạng thoải mái hơn.
- Nên chuẩn bị trước một số câu trả lời có thể được hỏi và cố gắng nói lưu loát.
- Nên trả lời thành thật, không nên vì lo sợ mà phải giấu diếm điều gì
- Người phỏng vấn sẽ chú trọng vào 3 điều
- Bạn có đủ khả năng học tập tại Mỹ và tại trường bạn đã chọn không? (Thành tích học tập tốt và các chứng nhận đủ điểm tiếng Anh mà nhà trường yêu cầu (TOEFL, IELTS,…) là rất cần thiết.
- Khả năng tài chính của bạn (giấy tờ chứng minh tài chính, cha mẹ làm công việc gì, giấy tờ chứng minh công việc của cha mẹ)
- Khả năng bạn sẽ quay về Việt Nam sau khi học xong (cha mẹ, gia đình đều ở Việt Nam,… Nhưng nếu bạn có người thân ở nước Mỹ thì cũng không ảnh hưởng gì vì người phỏng vấn hiểu vì biến cố lịch sử mà có nhiều người Việt Nam có người thân ở Mỹ)
Toàn Trung ITEC07 - phỏng vấn visa
Lần cập nhật cuối lúc Thứ hai, 28 Tháng 10 2019 13:30 Viết bởi Trần Công Danh Thứ ba, 25 Tháng 5 2010 11:03
Hồ sơ:
- Bảng điểm đại học 2 năm tại KHTN.
- Giấy chứng nhận sinh viên của KHTN + giấy giới thiệu của Portland ( hỏi thầy Danh ).
- Học bạ và bảng tốt nghiệp lớp 12.
- Giấy khai sinh
- Giấy tờ nhà đất + giấy tờ thu nhập của gia đình + Giấy phép kinh doanh của gia đình + sổ tiết kiệm ngân hàng, hoặc bất động sản nếu có =====> Em phải học thuộc là hằng tháng, gia đình kiếm được bao nhiêu tiền , quy đổi ra tiền đô la Mỹ. ===> Luôn để giấy tờ nhà đất ( thu nhập , sổ ngân hàng ) bên tay trái hoặc tay phải khi lên phỏng vấn; sẽ có 1 kệ nhỏ trước cửa số phỏng vấn để em sắp xếp hồ sơ. ====> Khi hỏi về chứng minh thu nhập thì nói là hằng tháng gia đinh thu nhập khoảng .... đô la Mỹ ; sau đó trình nguyên đống giấy tờ cho lãnh sự quán xem để chứng minh là mình ko nói xạo.
- Bảng điểm TOEFL@ibt :::: Em quên là xong luôn. Phải nhớ.
- I-20 ( ghi đăng ký sẽ bị giữ lại I-20. Nếu đậu thì họ cũng giữ I-20; nếu rớt thì trả lại .... Anh quên thủ tục rồi....)
- Tham thảo thêm thầy Danh, chị Hạnh, ....
=> Có 1 phiên dịch viên và người lãnh sự. Khi đến lượt em, bước đầu là sắp xếp toàn bộ giấy tờ lên mặt kệ, rộng khoảng 1 gang tay. Giấy tờ học vấn để qua 1 bên, giấy tờ nhà đất 1 bên, giấy tờ chứng minh thu nhập 1 bên .... làm thật nhanh vì em chỉ có 1 phút để sắp xếp giấy tờ thôi vì lãnh sự quán sẽ xem hồ sơ DS..., I-20 khoảng 30 giây trước khi hỏi em. Lảm thật nhanh. Ở nhà sắp xếp trước, đến nơi chỉ việc lôi ra thôi.
=> Sau khi sắp xếp xong, lập tức chào xã giao (Good morning/ afternoon, sir or ma'am. => phải chào cả 2 người) , sau đó chuyển bị trả lời... và chúc em may mắn. )
=> Hỏi cái gì thì trả lời cái đó, nói tiếng anh ( vì em du học ), ko được vừa suy nghĩ vừa nói, ko được cười. Câu trả lời ngắn gọn 3-4 dòng là đủ. Nếu nghe ko hiểu, hỏi lại người Mỹ, hoặc là lãnh sự quán lặp lại hoặc là người phiên dịch sẽ nói tiếng việt ( đây là trường hợp của anh khi người Mỹ ko lặp lại mà người việt dịch ra luôn), sau đó em phải trả lời bằng tiếng Anh.
==> Nếu đậu, em sẽ nhận được 1/2 ( một phần hai tờ giấy A 4 ), đem tờ giấy A 4 đến dịch vụ EMS để làm thủ tục để chuyển passport có kèm visa du học F1, vài ngày sau, em sẽ nhận được qua đường bưu điện ( nhớ là nếu đậu, họ sẽ giữ Passport để làm visa F1 trong đó luôn). Nếu rớt, em sẽ nhận được 1 tờ giấy A 4 để em đọc vì sao em rớt + Passport.
=> Đậu hay rớt là trong khoảng thời gian 3-4 phút khi phỏng vấn, ăn mặc chỉnh tề, nói rõ rằng, lành mạch ( tốt nhất là họ thuộc lòng ở nhà ).
Máy bay:
- Sau khi biết được mình đậu ( nhận được 1/2 giấy A 4 ) thì liên hệ với hãng may bay em muốn đi. Anh đóng tiền cho dịch vụ tư vấn du học nên họ chọn hãy United Airline với giá ko mắc như của Thư và Long, $575.
Khởi hành từ Tân Sơn Nhất -> quá cảnh ở Hồng Kong 3 tiếng nhưng ko phải lấy hành lý, chỉ lấy giỏi xách đi kèm của mình nếu có. Sau đó tiếp tục đi máy bay United Airline để đến San Francisco hoặc Cali ( anh quên rồi ), đến đây làm thủ tục hải quan của Mỹ -> lấy hành lý -> đón máy bay nội địa đi ......
=> Khi đi máy bay nội địa của Mỹ sẽ ko bao ăn, chỉ bao uống. Khi đi máy bay từ Tân Sơn Nhất -> Hong Kong ( 2 tiếng + bao ăn, uống ). Từ Hong Kong -> San Fran. ( 6 tiếng + bao ăn uống và tha hồ ngủ).
=> Nhiệm vục của em là tìm người đưa đón em về trường hoặc về ký túc xá hoặc tự đi nếu em muốn.
Câu hỏi phỏng vấn:
- Tại sao ko học tiếng anh ở VN mà qua đây để học ( trường hợp của anh là qua Mỹ học tiếng anh của Kaplan -> chuyển tiếp qua đại học Mỹ. ) ; của em thì khác, anh ko biết ( em hãy hỏi bên Portland là điều kiện tiếng anh là bao nhiêu). Nếu ko đủ, thì khi kphỏng vấn, trình bảng điểm TOEFL , nói là đã thi TOEFL với số điểm là vậy... , nhưng ko đủ và chấp nhận qua học tiếp tiếng Anh , ngoài ra cũng làm quen với giọng Mỹ và văn hóa Mỹ trước khi vào học chương trình chính khóa => dễ tiếp thu bài hơn, quen với cách học và cách sống của người Mỹ.... ( nhớ là ngắn gọn )
- Tại sao ko tiếp tục 2 năm còn lại ở VN để lấy bằng của Portland ? Do Portland và trường KHTN ... nên sinh viên muốn lấy bằng đại học của Portland thì phải chuyển tiếp qua Mỹ và em đã học 2 năm theo chương trình của Portland rồi. Đây là bảng điểm của em và giấy giới thiệu của Portland
- Chứng minh tài chính. Ai cung cấp tiền học phí cho em khi du học ở mỹ: Cha mẹ làm gì đó, thu nhập là ... / hằng tháng + sổ tiết kiệm là ... + có bất động sản + .... ==> vừa nói hoặc nói xong thì trình giấy tờ ra.
- Em có dự định gì sau khi học xong ? ( hoặc là nói về nước để tìm việc làm tại Cty nào đó... ; hoặc là nói sẽ tiếp tục học lên Thạc Sỹ để ....)
- Tự tham khảo thêm trên mạng. Download fiel pdf để đọc và từ tìm câu trả lời
Từ Toàn Trung - khoá ITEC07
Lần cập nhật cuối lúc Thứ hai, 28 Tháng 10 2019 13:30 Viết bởi Trần Công Danh Thứ ba, 25 Tháng 5 2010 09:46
Em có thể trình bày hơi lung tung, không theo thứ tự.
<1> Lộ trình đến Mỹ từ Việt Nam: Em đóng tiền mua vé may bay của hãng United Airlines của Mỹ ở Cty tư vấn với giá khoảng $575. Giá vé này mềm hơi giá vé mà Long và Thư đã mua. Hơi nữa, khi chuyển tiếp qua sân bay Hồng Kông thì ko cần phải lấy hành lý từ khoang máy bay, chỉ đợi 3 tiếng ở trong sân bay ( có Wifi, phòng vệ sinh, và rất rộng ). Sau đó tiếp tục lên máy bay của hãng United Airlines để đến sân bay SFO ( San Francisco International Airport ). Từ Hồng Kong đế SFO là 6 tiếng. Cực kỳ uể oải do em lần đầu tiên ngồi lên máy bay rất lâu ( bao ăn, uống ). Đến SFO, phải lấy hành lý ( có máy quay tròn tròn, hành lý nằm ở đó ); rồi đón máy bay qua Boston. Trong chuyến đi Boston, ko bao ăn (phải mua), chỉ bao nước uống.
<2>. Nơi ở: Đa dạng: Ở căn hộ với 1 phòng ngủ hoặc 2 phòng ngủ; hoặc ở với người bản xứ với giá rẽ hơi 1 chút. Ở nhà bản xứ thì có 2 lựa chọn: Ở phòng đơn thì giá là $1040 bao ăn tối và có ít nhất là 4 sinh viên trong nhà. Ở phòng đôi (twim room) thì $880; thường chỉ có 2 sinh viên ở cùng phòng, share bathroom và cũng bao ăn tối. Em đoán là phần lớn người bản xứ là người da đen. Mình thích hay không thích ăn gì thì cứ nói trực tiếp. Họ có thể nấu cơm ( cơm Mỹ hoặc cơm trắng giống cơm ở Vietnam) => Những nơi ở trên đều do Kaplan Aspect quản lý ( sinh viên phải đóng tiền thuê nhà cho Kaplan; ko đc đóng trực tiếp cho chủ nhà ). Tuy nhiên, nhiều sinh viên chỉ ở 1, 2 hoặc 3 tháng là chuyển ra căn hộ để ở ( Malden Center - xem bản đồ). Giá cả thì mềm hơi ( 400 - 800 đô, phải ký hợp đồng thuê nhà 1 năm; chỉ bao nước, còn internet, điện và ga thì phải tự trả ). 1 phòng có 1 hoặc 2 phòng ngủ và 1 phòng khách. Sinh viên nào ở phòng khách thì giá rẽ nhất khoảng 400. Căn hộ có sẵn bếp ăn và tủ lạnh, phòng vệ sinh, máy giặc và máy sấy.
Bản đồ của Orange Line
<3>. Phương tiện đi lại: Xe bus, trains ( subway) và Commuter Rail. Phải mua thẻ $59 / tháng thì đi bất cứ phương tiện nào nói ở trên với bất kỳ thời gian. 3 phương tiện trên là phổ biến nhất và sinh viên sử dụng thời xuyên.
- Xe bus: Phải biết mình đi xe bus nào ( có số điện tử trên mỗi xe bus ). Hỏi người bản xứ, tra cứu trên map.google.com, hỏi người quản lý nhà ở của Kaplan ... Trên xe bus, chủ yếu là người da đen, rất hiếm ( 1, hoặc 2, thậm chí là ko có người da trắng; nhưng có người da màu là sinh viên.). Không có phân biệt chủng tộc; không có gây khó khăn cho sinh viên nếu họ không gây hấn với người da đen. Thường số lượng người trên xe bus đông, phải đứng vì ko còn chỗ ngồi. Nhưng dần dần sẽ bớt. Xe bus dùng theo tuyến ( trên đường có bảng và trạm chờ nên bus thường dừng để khách lên và khách xuống; ko có nạn dừng xe nửa dừng trên đường hay vừa chạy vừa đón khách giống Vietnam. Do đó, nếu chậm là phải chờ chuyến khác.
- Xe train ( hay subway). có chủ yếu là 4 màu (Orange, Red, Green, Blue). Tùy nơi mình đi và mình đến thì chọn màu xe lửa để đi. Ví dụ: Để đến trường Northeastern Uni,. có thể đi xe lửa màu vàng (Orange) và xe Commuter Rail màu xanh (Green). Ai coi xem Mỹ thì sẽ thấy xe lửa và trạm đón xe lửa. Thường ở dưới mặt đất. Đối với sinh viên Hàn Quốc thì họ cho rằng hệ thống xe lửa ở Boston này cũ nhưng hoạt động tốt. Còn đối với em ( sinh viên Vietnam) thì quá tiện nghi. Có thể đi bất kỳ thành phố nào trong Boston.
- Commuter Rail: giống xe lửa nhưng chỉ dài bằng xe tải, chạy trên mặt đất bằng đường ray và bằng dây kéo trên không.
==> Lộ trình đi học của em: Từ nhà bản xứ đến trạm xe bus và xe lửa màu đỏ ( Mattapan Station - là trạm có xe bus và xe lửa và commuter Rail màu đỏ ) là 20 phút. Đón xe bus số 31 từ Mattapan đến Forest Hill station ( Forest Hill Station là điểm khởi đầu của tuyến xe lửa màu vàng; gọi tắt là Orange line ). Qua sáu chặng dừng trên tuyến Orange line là tới trường bởi vì có trạm xe lửa và commuter rail màu vàng nằm trong khuôn viên trường Northeastern Uni. => Tốn khoảng 45 phút tới trường. Ngày cuối tuần, em thường đón xe lửa màu đỏ ( 20 phút từ nhà đến trạm xe bus và xe lửa - Mattapan Station -> đón Commuter Rail màu đỏ -> đón xe lửa màu đỏ đến Fields Corner ). Người Việt Nam sinh sống ở Dorchester City.
=> BC ( Boston College ); và BU ( Boston Uni ) nằm trên tuyến xe lửa và Commuter Rail màu Green. Harvard Uni và MIT thì nằm trên Red Line. ===> Em chưa bao giờ đến đó vì xa.
<4>. Học tiếng anh ở Kaplan Aspect. Hiện Vietnam chưa có Cty Kaplan chính thức, chỉ có ở Trung Quốc hoặc .... Sinh viên phần đông là từ Trung Quốc, Hàn Quốc, châu Âu, Nam Mỹ, Vietnam và Ả rập, ... Trường Kaplan mà em đang theo học thì nằm trong khuôn viên trường Northeastern Uni. Phần đông sinh viên Trung Quốc học tiếng Anh ở đây, sau đó chuyển tiếp qua học chương trình Globay Pathway của Northeastern Uni bởi vì Northeastern Uni. chấp nhận giấy chứng nhận học tiếng anh của Kaplan Aspect. Sinh viên Hàn Quốc thì phần nhiều là học tiếng Anh ở Kaplan; sau đó về nước để học đại học của họ.
* Ở Kaplan: mỗi khóa học là 10 tuần; nhưng ko có khởi đầu và kết thúc. Họ cứ dạy tới tới và không theo thứ tự trong sách. Sau khi sinh viên nào tham gia học đầy đủ 10 tuần ( tham dự trên 80%) thì đăng ký làm bài Level Test. Đây là bài kiểm tra cuối khóa và nếu đạt sẽ chuyển trên cấp độ mới. Nếu ko đạt thì tuần sau làm lại ( buổi kiểm tra thường vào thứ Tư hằng tuần; xem trên máy tính; hình thức thi rất giống với TOEFL@ibt - 4 kỹ năng: Ngữ pháp & đọc hiểu -> Nghe -> Nói -> Viết. Thời gian là 2 tiếng. Sau khi làm bài xong; sinh viên sẽ biết kết quả của 2 kỹ năng đầu là Grammar&reading và Listening liền vì máy chấm tự động. Còn Speaking và Writing thì do Academic Manager chấm. Kết quả cuối cùng sẽ biết vào ngày thứ Sáu. Giờ học chính là buổi sáng hoặc buổi chiều; tùy sinh viên chọn. Trong buổi sáng ( hoặc buổi chiều ); mỗi cấp độ đều có 2 lớp song song; do đó sinh viên có quyền chuyển đổi lớp nếu họ muốn. Có 5 cấp độ ở Kaplan: Beginer -> intermediate -> Higher-intermediate -> Advance -> Professional. Vào mỗi thứ 2 hằng tuần đều có bài kiểm tra. Một số giáo viên rất tin tưởng sinh viên, nên sau khi làm xong bài kiểm tra, giáo viên sẽ cho chấm bài chéo ( sửa bài tại chỗ, sau đó giáo viên ghi lại điểm của sinh viên vào laptop hoặc giấy gì đó.). Vào thứ Sáu, sinh viên được cho xem phim trong lớp học, có phụ đề tiếng anh. Xem phim gì thì tùy vào giáo viên. Sau khi xem xong, sinh viên hoặc là viết khoảng 1 trang giấy nói về bộ phim và cảm nghĩ về nhân vật chính hoặc là về nhà viết rồi thứ 2 nộp lại. Nộp hay ko cũng tùy sinh viên. Lúc mới vào trường, sinh viên phải đóng $40 đặt cọc để có sách Ngữ pháp. Sau khi học xong chương trình của Kaplan, sinh viên đưa lại biên lai đặt cọc để lấy lại $40. Nếu mất biên lai thì mất tiền luôn. Ngoài giờ học chính; sinh viên có thể đăng ký học những topics khác nhau sau giờ học. ( Ví dụ: em học tiếng anh vào buổi chiều thứ 2 -> thứ 6; từ 13g00 đến 16g10; sau đó từ 16g20 đến 17g50 thì có rất nhiều lớp học chuyên đề (lớp phát âm; lớp tranh luận; lớp học từ vựng; lớp xem phim; .... ) ; sinh viện muốn học lớp nào thì đăng ký; muốn chuyển lớp nào thì chỉ việc điền vào mẫu đơn chuyển đổi lớp; đưa cho Academic Manager; sau đó vào thứ 2 tuần sau sẽ nhận được thời khóa biểu mới. Những lớp học này ko phải làm bài kiểm tra; có thể học, có thể cúp ( skip or truant class ), tùy sinh viên mặc dù có điểm danh nhưng ko có ý nghĩa gì cả. Trong năm có nhiều ngày lễ nên snh viên được nghĩ; ngoài ra do biến cố nào đó ví dụ thời tiết xấu; sinh viên cũng được nghĩ ( vào tháng 1, mùa đông; có bão tuyết).
Hình ảnh lớp học
<5>. Báo ở Mỹ ( báo Metro ) phát miễn phí từ thứ 2 -> thứ 6. Phát ở trạm xe lửa hay trên đường. Thông tin chủ yếu nói về Boston; hoặc những thông tin nói hổi về kinh tế, chính trị.... của nước Mỹ hoặc của thế giới. Em cũng đọc báo hằng ngày lúc mới qua; giờ thì ít rồi vì ở nhà nhiều hơn. Có hôm đọc báo dễ hiểu; khoảng 50 - 60 % vì đề tài và từ vững dễ hiểu. Tuy nhiên; có hôm đọc xong; chẳng hiểu gì cả vì hầu hết là từ mới, đề tài quá khó. Lúc em mới qua, thì vẫn tra từ vựng trên báo. Giờ thì ko nữa vì ko có thời gian; chỉ là đọc những title ( tiêu đề lớn thôi).
=> Do đọc báo, em biết là ở Boston cũng còn tình trạng sử dụng hàng "nóng". Vẫn thường xãy ra tình trạng giết người bằng súng.
<6>. Ở Haymarket - Orange Line - cách trường 6 trạm dừng xe lửa là có khu chợ trời; chuyên bán trái cây và 2 sạp bán cá + thủy sản. Ở đây rất đông nhưng ko có rộng và chủ ý mua bán bằng tiền mặt ( ko chấp nhập debit hay credit card). Em thường mua 1 bịch có 20 trái apple (tiếng Việt là trái bơm ) với giá 2 đô; 1 hộp nhựa trái dâu tây với giá ... 1 đô. --> nói chung là trái cây ở đây giá mềm hơn siêu thị.
<7>. Các cửa hàng điện tử ở Mỹ: Sau khi mua hàng điện tử; giữ lại hóa đơn. Nếu bị trục trặc, ko thích dùng nữa, ko vẫn ý, ... cứ đem theo hóa đơn và sản phẩm đó đến cửa hàng đổi lại. Trên hóa đơn có ghi điều kiện trả lại hàng.
<8>. Ở Mỹ; các phích cắm điện đều sử dụng 2 chấu dẹp hoặc 2 chấu dẹp + 1 chấu tròn.
<9>. Máy tính cho sinh viên sử dụng là Hoặc là Win XP hoặc là Hệ điều hành của hãng Apple. Phòng Lap ( để làm bài kiểm tra cuối khóa - gọi là Level Test : toàn bộ máy ở phòng Lap đều là HDH của hãng Apple, đề thi trên mạng. Khi vào phòng Lap, giáo viên điểm danh rồi đưa 2 tờ giấy có thông tin của mình để điền thông tin đó vào trang chủ thì mới làm bài được. Sinh viên ko được sử dụng giấy nháp của chính mình, nhưng có thể viết nháp vào 2 đưa giấy mà giáo viên đưa. Sau khi làm xong, thì biết điểm của Đọc & hiểu ( gồm ngữ pháp và đọc hiểu 3-4 bài ) và điểm của phần nghe. Trước khi ra về thì phải nộp lại 2 tờ giấy nháp ( giống thi TOEFL hệt vậy ). Ngày thi là thường vào thứ 4, đến thứ sáu là biết kết quả đậu hay rớt.
<10>. À; lúc mới qua thì giờ ở Boston và giờ ở Vietnam chênh lệch nhau 12 tiếng. Ví dụ ở Boston là 12 giờ trưa thì ở Vietnam là 12 đêm. Đến giữa tháng 3 thì giờ ở Boston chạy nhanh hơn 1 tiếng. Ví dụ: trước tháng 3; vào lúc 18 giờ thì trời tối; đến đầu tháng 4; lúc 18 giờ thì bầu trời sáng chưng như mới 17 giờ. Hiện giờ tháng 4, lúc 19 giờ thì bầu trời mới bắt đầu tối. Em nghe thầy giáo nói rằng đến khoảng tháng 10 thì giờ Boston thay đổi - trở lại bình thường ( I don't know how it is ).
<11>. Ăn trưa: Em thường nấu cơm ở nhà, mua đồ hộp rồi mang theo vào trường ăn. Trong văn phòng của Kaplan, có sẵn microwave, bình nước nóng & lạnh. Tuy nhiên, ở trường cũng có nhiều căn tin.
<12>. Trong khuôn viên trường ( trung tâm Kaplan đặt trong campus cửa trường ĐH Northeastern Uni ); có xe cảnh sát của Northeastern Uni, thỉnh thoảng xuất hiện trực thăng bay vòng trong campus. Ngoài trường học thì có cảnh sát của Boston.
<13>. Ở Boston, khi trời mưa, mọi người đều sử dụng dù (umbrella). Chỉ có em sử dụng áo mưa.
<14>. Nếu ở căn hộ, hoặc nhà bản xứ có máy giặc và máy sấy thì ko cần phải ra tiệm giặt đồ. Trường hợp của em thì phải ra tiệm giặc đồ ở khu người Việt ( cửa hàng lớn, có rất nhiều máy giặc và máy sấy); có người Việt, người Mỹ và người Mỹ -gốc Tây Ban Nha thường đến đây giặt đồ. Chủ nhà lo phần tiền giặc ( mua thẻ $2, sau đó nạp tiền vào $10, $20, ... ), em chỉ lo mua bột giặt.
Phan Thông Minh Thư - ITEC07
Lần cập nhật cuối lúc Thứ năm, 31 Tháng 5 2012 20:54 Viết bởi Trần Công Danh Thứ hai, 24 Tháng 5 2010 16:47
Sau 5 tháng sống và học tập trên nước Mỹ, tôi chưa thể tự nhận mình đã biết và hiểu tất cả về đất nước này, nhưng những điều tôi học được và những kinh nghiệm tôi trải qua có lẽ khó có thể học được qua sách vở.
Những ngày đầu khó khăn
Tôi nhập học vào đầu mùa xuân, trời lúc đó còn lạnh lắm. Dù Texas không phải là tiểu bang lạnh giá như các tiểu bang ở miền Bắc nhưng vào mùa đông nhiệt độ xuống khoảng 1-2oC là chuyện thường. Mỗi ngày đi học, tôi mặc hai ba lớp áo khoác mà tay chân vẫn tê cóng, phải gấp rút chạy vào lớp học hoặc thư viện có máy sưởi.
Cảm giác thích thú vui sướng lúc ban đầu vì được đến một nơi xa xôi, được học tập trong một môi trường mà mình mơ ước, được sống tự lập, đôi khi vẫn xen lẫn với nỗi buồn nhờ nhà và tủi thân. Mọi thứ đều phải tự tìm hiểu, tự làm và tự … rút kinh nghiệm nếu làm sai. Mọi chi tiêu đều phải tiết kiệm chứ chẳng được thoải mái như khi ở nhà cùng cha mẹ. Mỗi tối ăn uống dọn dẹp xong phải chuẩn bị bữa trưa để ngày mang theo đi học. Không dám ăn trong trường vì … đắt. Bao nhiêu lần tìm nhà, dọn nhà, để tìm một chỗ ở ổn định cũng mất nhiều thời gian và phải lo nghĩ nhiều.
Đi du học ở nước ngoài, điều gì là quan trọng nhất? Khả năng tài chính? Khả năng học tập? Khả năng tự lập khi sống xa gia đình? Bản thân tôi xin xếp những thứ ấy sau khả năng ngoại ngữ. Nhiều bạn học sinh chuẩn bị đi du học lơ là về điều này, hoặc các bạn cảm thấy mình đã đủ giỏi, thì nên suy nghĩ và xác định cẩn thận. Chuẩn bị kĩ càng khả năng ngoại ngữ không bao giờ là dư thừa. Lúc còn học ở Itec, tôi có thể hiểu được thầy cô giảng bài và có thể trao đổi với thầy cô bằng tiếng Anh. Tôi đạt được số điểm cần có trong kì thi TOEFL. Tôi vẫn biết khi mình sang Mỹ chuyện giao tiếp sẽ khó khăn, nhưng tôi đã không nghĩ là những ngày đầu tôi không thể hiểu, hay chính xác hơn không thể nghe kịp những gì người bản xứ nói, và họ cũng không hiểu được khi tôi nói.
Khó khăn nối tiếp khó khăn, tưởng rằng có TOEFL thì đã đủ, khi nhập học trường Universiy of Houston, tôi vẫn phải thi một bài thi TSI ( Texas Success Initiative), là kì thi mà mọi sinh viên quốc tế khi bắt đầu vào học các trường ở bang Texas đều phải thi. TSI có nhiều loại để lựa chọn: THEA, COMPASS hay ACCUPLACER. Phải đậu kì thi này mới được bắt đầu lựa chọn lớp. Tôi chọn ACCUPLACER vì kì thi này sẽ có kết quả nhanh nhất. 4 kĩ năng được kiểm tra: Math, Reading, Writing, và Sentence Skill. Phần Math có vẻ không gây khó cho sinh viên Việt Nam vì chỉ là giải những phương trình, toán hình học cấp 2, hoặc toán lượng giác của cấp 3, và điểm để pass cũng chỉ khoảng 63/100. Phần Sentence Skill sẽ yêu cầu sửa chữa lỗi sai trong cấu trúc câu, phần này không hỏi khó hay hỏi mẹo, nhưng điểm pass là 80/100. Phần Reading có khó hơn một chút, vì những câu đầu sẽ dễ (và điểm cho những câu này sẽ ít), nếu trả lời đúng những câu này thì hệ thống sẽ chọn câu khó cho những câu tiếp theo (điểm cũng cao hơn), nhưng nếu những câu đầu sai thì những câu tiếp theo sẽ dễ (đồng nghĩa điểm thấp). Vì thế, nếu trả lời sai nhiều câu đầu, dù phần còn lại đúng, nhưng tổng điểm có thể không cao và có thể không đủ 78/100 để đậu. Điểm thấp nhất để đậu phần Writing là 6/8, cách viết cũng giống như những bài essay khác, nhưng đề tài thường đòi hỏi bạn đưa ra ý kiến cá nhân nhiều, và đề tài có khi hơi mơ hồ như “Bạn nghĩ thành công có quan trọng hay không?”, “Con người nên làm gì để đạt được hạnh phúc?”. Những câu hỏi thoạt nhìn có vẻ dễ nhưng lại rất mông lung, và điểm pass khá cao nên thí sinh phải trau chuốt câu văn rất nhiều.
Xong kì thi TSI rồi, thì lại đến những điều mới lạ khác. Làm sao để chọn lớp? Sau khi đậu TSI, tôi đến gặp advisor để được chứng nhận đã qua kì thi này, và được cho lời khuyên nên chọn lớp nào. Và điều này là bắt buộc với các sinh viên, nếu không họ không được chọn lớp, dù sau đó họ có thể chọn lớp theo ý mình. Sau khi advisor khuyên tôi nên lấy những lớp nào, thì tất cả các lớp ấy đã full, không còn chỗ, phải làm sao đây? Lúc đầu chưa có kinh nghiệm tôi đã lo lắng lắm, sinh viên quốc tế phải lấy ít nhất 12 credit hours/ semester. Chẳng còn cách nào khác, tôi canh những sinh viên khác drop (bỏ lớp), thì nhanh chóng chọn, cứ năm phút lại kiểm trả một lần, sau một đêm đã có đủ bốn lớp. Sau này tôi biết cũng có rất nhiều sinh viên dùng cách này để chọn lớp, và không có gì phải lo lắng cả, mọi việc đều có thể xảy ra. Sau ngày học chính thức một tuần, sinh viên vẫn có thể bỏ hay chọn lớp. Nhiều sinh viên không thể chọn lớp mình muốn trước ngày học thì vẫn có thể đợi đến tuần đầu tiên này để chọn.
Nhưng trên hết tất cả, những khó khăn vất vả sẽ được đền bù. Một môi trường học tập tiên tiến, không căng thẳng nhưng hiệu quả, học phí cao nhưng xứng đáng với những gì bạn gặt hái được. Trường tổ chức một buổi Orientation Day để giới thiệu cho sinh viên về trường và giúp họ khỏi bỡ ngỡ. Trường học rộng lớn với hàng chục colleges. Food court, phòng tập gym, phòng xem TV, nhà hát, và cả … nhà thờ, đều có trong trường.
Phòng xem TV
Nhà thờ trong khuôn viên trường
Nhà hát của trường hoạt động như một nhà hát thực sự
Thư viện với 8 tầng lầu, mỗi tầng đều đầy ắp sách với đủ các thể loại, kể cả sách thiếu nhi. Thư viện có rất nhiều khu vực cho sinh viên học tập theo mục đích: khu vực yên tĩnh, khu vực cho nhóm, khu vực computer,… Nhưng không vì nhiều chỗ mà dễ dàng tìm một chỗ ngồi thích hợp, nhất là giờ cao điểm. Sinh viên ở đây rất thích học ở thư viện, nên từ khoảng 11g đến 2g rất khó để tìm một computer còn trống. Và một nhóm cũng khó tìm được chỗ để học cùng nhau trong khoảng thời gian này.
Thư viện M.D Anderson
Tầng 8 của thư viện
Nói về sinh viên, sinh viên Việt Nam được biết đến là rất siêng năng và giỏi các môn tự nhiên. Tuy nhiên, tôi thấy sinh viên Mỹ và các sinh viên nước khác có vẻ trội hơn về khoản siêng năng chăm chỉ. Trước khi vào học 30 phút thì rất nhiều sinh viên đã ngồi trước cửa phòng học, trao đổi về bài học và để … giành chỗ. Họ rất thích ngồi những bàn đầu, và không ngại hỏi. Sinh viên thường lập ra các study group để học và ôn cho các bài thi. Những người này thường không quen biết nhau trước mà bắt đầu từ một người gửi lên trang web của lớp hỏi có ai muốn tham gia study group vào ngày…tháng… để chuẩn bị cho kì thi không, và để lại số điện thoại hoặc email để lien lạc. Vào mùa thi các study group hoạt động rất sôi nổi. Họ đến trường kể cả thứ bảy và chủ nhật (vì ngày thường ai cũng có lớp), và mùa thi thư viện nới rộng thời gian mở cửa nên sinh viên cứ việc đến học và mang theo … mền gối để ngủ nếu cần (trong thư viện có những ghế dựa dài dành cho sinh viên nghỉ ngơi).
Một điều đúng về sinh viên Mỹ là có vẻ họ không giỏi các môn tự nhiên bằng sinh viên châu Á. Vì trong khi ở Việt Nam, các môn toán, lý, hóa, sinh, được tập trung giảng dạy như những môn chính từ cấp hai đến cấp ba, thì ở Mỹ, những môn này chỉ là chọn lựa của học sinh trung học (họ có thể học sau này ở đại học hoặc cao đẳng cộng đồng). Nhưng bù lại, họ rất giỏi các môn xã hội. Lý luận của họ rất sâu sắc và khi cần đề cập đến một vấn đề họ sẽ tìm hiểu rất kĩ và ghi nhớ nhiều chi tiết. Sinh viên quốc tế thường gặp trở ngại về ngôn ngữ, chính vì thế mà những môn này không được thành công như các môn tự nhiên.
Hệ thống giáo dục Mỹ không chỉ dạy chú trọng vào các môn cần có cho major, mà họ tập trung vào giáo dục toàn diện. Điều này giúp sinh viên không chỉ học khô khan mà còn phải hiểu biết về các vấn đề xung quanh, phải biết quan tâm và giúp đỡ cộng đồng. Dù major là gì, sinh viên vẫn phải lấy một lớp Visual/Performing Art (xem hoặc biểu diễn nghệ thuật). Những lớp sinh viên thường lấy là những lớp về cách cảm nhận âm nhạc hay tìm hiểu kịch nghệ, vì những lớp này không đòi hỏi thi tuyển đầu vào như các lớp biểu diễn. Mùa vừa rồi tôi đã lấy lớp tìm hiểu kịch nghệ. Lớp chỉ đơn giản giúp sinh viên khi xem một vở kịch sẽ có những cảm nhận riêng mình về nội dung kịch, diễn viên, âm thanh, ánh sáng,… và suy nghĩ, lien hệ đến đời sống. Trong khóa học sinh viên phải xem hai vở kịch và viết cảm nhân về nó (làm tại nhà), đọc ba kịch bản để trả lời các câu hỏi về nội dung và cảm nghĩ (tại lớp). Các phần bài giảng còn lại đa số được học online, chỉ một phần nhỏ được giáo viên giảng dạy tại lớp. Nếu không lấy lớp này, có lẽ không biết khi nào tôi mới có dịp đi xem một vở kịch ở Mỹ, vì vé khá đắt. Những vở kịch này được diễn trong trường, vẫn có những người bên ngoài trường vào xem vì nó hoạt động như một nhà hát thực sự, và sinh viên của trường sẽ được giảm giá, sinh viên của lớp theatre cần xem kịch để viết bài lại được giảm thêm nữa.
Việc sinh viên tham gia vào các đoàn hội là rất quan trọng cho họ sau này và đôi khi là đòi hỏi của các trường professional như Y, Dược… Sinh viên nhờ thế không chỉ biết học mà còn được giao lưu kết bạn, làm từ thiện, giúp đỡ người khác. Có rất nhiều hội, dường như mỗi college đều có một association: College of Pharmacy, College of Business, College of Law,… Những hội này sẽ có những buổi meeting để thảo luận về các môn học cần có trong college của mình, những chuyên gia (dược sĩ, doanh nhân, luật sư,…) đến nói chuyện với sinh viên, hiến máu nhân đạo, đóng góp thực phẩm cho người nghèo, hoặc đơn giản là cả hội đến gameroom của trường chơi bowling để tạo sự đoàn kết trong hội. Các thành viên trong hội muốn được là active member (thành viên năng động), rất tốt khi đăng kí vào trường professional, thì phải đạt được số điểm cần có. Những điểm này có được khi đi dự meeting, mặc áo của hội, hiến máu, làm việc cộng đồng, hoặc ngồi trong phòng của hội trong một số giờ nhất định.
Việc học ở Mỹ có phần không căng thẳng như ở Việt Nam. Nếu là bài viết dài thì sinh viên được viết ở nhà, được trao đổi với bạn bè, tìm hiểu thông tin trên mạng thoải mái, miễn đừng vi phạm điều cấm kị là đạo văn. Những bài thi trong lớp thì sẽ được giáo viên cho trước practice test để chuẩn bị, dù bài thi không hoàn toàn giống và có thể hỏi ngoài practice test nhưng đa số là nằm trong những gì đã học và practice test giúp hệ thống lại kiến thức. Giáo sư thường cho làm quiz mỗi tuần nhưng không bất ngờ và gấp rút như kiểm tra 15 phút ở Việt Nam, đôi khi được làm online và có thể làm đến khi nào được điểm cao nhất (hoặc có thể làm tiếp nếu muốn luyện tập thêm) (nhưng mỗi quiz có deadline, có thể trong vòng 1 tuần hoặc 1 ngày cố định cho nhiều quizzes, qua khỏi thời gian đó thì chỉ được lấy điểm cao nhất mình đạt được). Ngoài ra còn có popper và clicker, dạng này thường bất ngờ, không báo trước, và câu hỏi thường … không dễ, vì tập trung vào những điều sinh viên hay quên. Nhưng không lo vì đúng sai không tính điểm mà chỉ tính attendance, vì không có điểm danh mỗi ngày, ai đủ số ngày cần có sẽ được thêm extra point. Cách này giúp giáo sư biết tình hình học tập của sinh viên và giúp sinh viên biết phần nào mình còn lơ là, cần xem lại.
Học tập trong giảng đường lớn thì sự trao đổi giữa giáo sư và sinh viên cũng bị hạn chế, hoặc giáo sư không đủ thời gian trả lời hết câu hỏi cho sinh viên, cho nên mỗi giáo sư đều có office hours, là khoảng thời gian sinh viên có thể đến hỏi bài, hoặc yêu cầu giảng lại phần không hiểu. Nếu vẫn chưa thỏa mãn hoặc ngại gặp giáo sư, sinh viên có thể đến hỏi tutor, những sinh viên này có kết quả học tốt và sẽ giúp khi sinh viên khác cần. Phòng của tutor cũng được thiết kế thành một study room để cái study group có thể đến học. Ngoài ra, mỗi giáo sư có khoảng 4-5 TA (teaching assistant), những người này cũng có office hours để giúp sinh viên khi họ không thể gặp giáo sư vào office hour của giáo sư. Những người này đồng thời cũng là grader, người chấm bài cho sinh viên, thay cho giáo sư. Đặc biệt lớp Theatre của tôi có 14 graders, những người này đang học chương trình master của diễn viên, và chính họ cũng diễn những vở kịch trong trường. Với những lớp cần nộp bài viết, trước khi nộp bài viết chính thức (và chưa đến deadline), có thể gửi bài cho những người grader để họ xem và góp ý nếu muốn.
Cựu sinh viên
Lần cập nhật cuối lúc Thứ năm, 31 Tháng 5 2012 20:54 Viết bởi Administrator Thứ năm, 06 Tháng 5 2010 23:10
Trang web này là sự chia xẻ các kinh nghiệm sống, cũng như học tập của các cựu sinh viên khi chuyển tiếp sang học tập tại nước ngoài như Mỹ, Anh, Úc, Canada và New Zealand:
|
||||||||||||||||||||||
|
||||||||||||||||||||||
Các bài viết khác...
Trang 73 trong tổng số 77
« Bắt đầuLùi71727374757677Tiếp theoCuối »